Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Việc xác định tuổi chịu TNHS là vấn đề rất quan trọng trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia. Bởi nó thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc xử lý tội phạm đảm bảo an toàn trật tự xã hội đồng thời bảo vệ quyền con người, đặc biệt là đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuổi chịu TNHS được quy định tại Điều 12 BLHS 2015.

Rất nhiều công dân quan tâm về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự? bao nhiêu tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự

Công ty Luật Vilakey chi nhánh Luật sư Đồng Nai với đội ngũ Luật sư giỏi sẽ giúp bạn tìm hiểu quy định của Pháp luật liên quan tới vấn đề này.

Để quy định độ tuổi chịu TNHS, ở Việt Nam các nhà lập pháp dựa vào bốn tiêu chí như sau:

– Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý, thể chất và khả năng nhận thức của lứa tuổi chưa thành niên.

– Căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và chính sách, đường lối xử lý tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.

– Căn cứ trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở nước ta nói riêng. Trong đó, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của tội phạm và tính phổ biến của những loại tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện trong những thời điểm cụ thể.

– Căn cứ vào việc tham khảo các quy định về độ tuổi chịu TNHS của các nước trên thế giới

Theo quy định tại Điều 12 BLLHS 2015, theo đó

tuoi chiu trach nhiem hinh su - Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:

a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);

b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);

d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);

e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).

Theo quy định của BLHS năm 1999, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về việc chuẩn bị phạm tội nếu tội phạm mà họ chuẩn bị thực hiện là tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc mọi tội danh; nay theo BLHS 2015, họ chỉ phải chịu HS nếu chuẩn bị phạm tội thuộc một trong hai tội danh đó là: Giết người (Điều 123) và cướp tài sản (Điều 168).

Thực tiễn cho thấy, những người đủ 16 tuổi là lứa tuổi phổ biến nhất có những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Họ thực hiện hành vi phạm tội một cách độc lập, tự chủ và tự quyết. Do đó, BLHS 2015 sửa đổi phạm vi chịu trách nhiệm theo đó, Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chúng tôi đã chia sẻ ở trên, Về căn cứ xác định tuổi ?

Tuổi của một người được xác định từ thời điểm người đó được sinh ra.

Căn cứ vào các loại giấy tờ có giá trị pháp lý gắn với nhân thân của người đó (như giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, các loại văn bằng,…) mà các cơ quan tư pháp xác định độ tuổi của một người.

Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không thu thập được, hoặc không xác nhận được cơ sở pháp lý của các loại giấy tờ, thì các cơ quan tư pháp sẽ phải xác định ngày sinh của người phạm tội theo nguyên tắc có lợi cho họ. Theo khoản 2 Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội, người bị hại được xác định trong 5 trường hợp như sau:

(1) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

(2) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.

(3) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

(4) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

(5) Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

Như vậy, theo quy định thì cách xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo, có nghĩa là trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng sinh của người bị buộc tội, người bị hại thì lấy ngày cuối cùng của tháng, của quý, của năm đó để làm ngày tháng sinh. Cách xác định độ tuổi của người bị buộc tội và người bị hại là như nhau. Quy định như vậy đã bảo đảm được sự công bằng giữa người bị buộc tội với người bị hại theo nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là “bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật”.

Về thời điểm tính tuổi

Ngày xác định độ tuổi của người phạm tội được tính ngay khi thực hiện hành vi phạm tội, bởi về nguyên tắc xác định năng lực của chủ thể là xác định vào thời điểm thực hiện hành vi. Vì vậy, tuổi được xác định vào thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là, hành vi phạm tội đã xảy ra vào thời điểm nào thì sẽ xác nhận độ tuổi của người phạm tội ở thời điểm đó. Trong trường hợp hành vi phạm tội kéo dài và liên tục, có nhiều hành vi được thực hiện ở các thời điểm khác nhau, khi xác định độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội có thể gặp trường hợp có hành vi thực hiện khi chưa đủ tuổi, có hành vi thực hiện khi đã đủ tuổi. Trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ lấy độ tuổi ở hành vi cuối để xem xét TNHS của họ. Có nhiều trường hợp khi xác định độ tuổi của người phạm tội có tính chất “giáp ranh” thì các cơ quan tư pháp cần tách các hành vi ở từng độ tuổi để xem xét và sẽ tính tuổi theo hướng có lợi hơn cho người phạm tội

Trên đây là toàn bộ quy định của pháp luật liên quan tới tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Để biết thêm thông tin chi tiết, xin liên hệ đến số Hotline.

 

 

Chuyên Mục: Tư Vấn Pháp Luật

HÃY ĐẶT CÂU HỎI CỦA BẠN

Để được tư vấn ngay vui lòng gọi cho Luật sư của chúng tôi theo số: 0916 39 79 19